Cần cơ chế cho các dự án điện khí
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khí sẽ vào khoảng 19.000MW, tương ứng với việc sử dụng 22 tỷ mét khối khí cho phát điện. Tuy nhiên theo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), nhu cầu nhiên liệu khí cho phát điện ngày càng tăng, nhưng nguồn cung lại đang giảm. Do đó, để có nguồn khí ổn định cho phát triển điện, cần có cơ chế cho các dự án điện khí, bảo đảm được hiệu quả của dự án và thu hút được vốn đầu tư.
Thử thách phía trước
Nhiệt điện khí có công nghệ tiên tiến, hiệu suất cao, thân thiện với môi trường, rất phù hợp với xu thế phát triển bền vững. Đặc biệt, nhiệt điện khí sẽ kịp thời bổ sung nguồn điện khi các nhà máy điện năng lượng tái tạo không ổn định, hoặc không thể phát điện do thời tiết không bảo đảm. Hiện nay, Việt Nam có 7.200MW điện khí, 80% sản lượng khí tiêu thụ tại thị trường Việt Nam dành cho phát điện.
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khí sẽ vào khoảng 19.000MW, tương ứng với việc sẽ sử dụng 22 tỷ mét khối khí cho phát điện. Tuy nhiên, đại diện PVN cho hay, nhu cầu nhiên liệu khí cho phát điện ngày càng tăng, nhưng nguồn cung đang ngày càng cạn kiệt. Theo dự báo của PVN, sau 2019, thị trường nhiên liệu khí sẽ rất căng thẳng do sản lượng khai thác khí của Việt Nam giảm mạnh, các mỏ khí cũng đang trong tình trạng suy kiệt.
Xây dựng cơ chế phù hợp
Việc phát triển nhiệt điện khí được đánh giá là rất cần thiết, bảo đảm được sự đa dạng các nguồn nhiên liệu sơ cấp cho phát điện, tăng cường an ninh năng lượng quốc gia. PVN dự kiến sản lượng cung cấp khí giai đoạn 2021 - 2025 là từ 13 - 19 tỷ mét khối/năm; giai đoạn 2026 - 2035 từ 17 - 21 tỷ mét khối/năm. Tới năm 2030, khoảng 50% nhiên liệu khí cho phát điện là từ nguồn khí hoá lỏng nhập khẩu. Trong tương lai, sự phát triển nhiệt điện khí của Việt Nam sẽ phụ thuộc lớn vào nguồn khí hóa lỏng nhập. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu phát triển điện khí theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh và tới đây là Quy hoạch điện VIII, PVN cần nhập khẩu lượng lớn khí hóa lỏng để bù đắp sản lượng khí thiếu hụt cho sản xuất điện.
Để có nguồn khí ổn định cho phát triển điện, theo đại diện PVN, cần có cơ chế cho các dự án điện khí, bảo đảm được hiệu quả của dự án và thu hút được vốn đầu tư. Cùng với đó, cần xây dựng kho cảng nhập khẩu khí hóa lỏng đồng bộ với các nhà máy điện khí, cung cấp nhiên liệu cho các nhà máy điện sử dụng khí hóa lỏng theo quy hoạch và bổ sung cho nguồn khí trong nước đang suy giảm. Song song với nhập khẩu khí hóa lỏng, Việt Nam cũng cần ổn định các nguồn khí trong nước đang khai thác như Nam Côn Sơn, PM3 - Cà Mau, đồng thời bảo đảm nhiên liệu khí cho phát điện. Ngoài ra, để duy trì trữ lượng khí lớn trong tương lai, cần tiếp tục mở rộng tìm kiếm, thăm dò các mỏ khí mới.