Công văn gửi Uỷ ban về Các vấn đề Xã hội, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam về bù lạm phát
Kính gửi: - Ủy ban về Các vấn đề Xã hội
- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
Những năm qua, việc quyết định và công bố mức lương tối thiểu cho từng thời kỳ đã thể hiện những nỗ lực to lớn của Chính phủ, các Bộ, ngành… nhằm giúp cho đơn vị sử dụng lao động và người lao động chủ động trong việc xây dựng thang, bảng lương phù hợp với thực tiễn đơn vị, đảm bảo lợi ích cho đơn vị sử dụng lao động, người lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua do chỉ số giá sinh hoạt có nhiều biến đổi so với dự báo trước đó của Chính phủ và phê duyệt của Quốc hội dẫn đến tình trạng lương thực tế của người lao động giảm đi so lương danh nghĩa của họ. Cá biệt có năm lương thực tế thấp hơn lương danh nghĩa, mà nguyên nhân chính là do lạm phát thực tế tăng hơn nhiều so với chỉ số lạm phát mà Chính phủ dự kiến và Quốc hội phê duyệt.
Tình trạng “Lương tăng không bù đủ lạm phát” trở thành vấn đề được đông đảo nhân dân quan tâm, trong đó thu hút rất nhiều ý kiến của các Đại biểu Quốc hội. Ngay trong kỳ họp thứ Nhất của Quốc hội Khoá 13, đã có 43 Đại biểu Quốc hội tham gia ý kiến nhằm phân tích tình hình lạm phát và mức độ ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội.
Để tiếp tục đóng góp ý kiến vào Bộ Luật lao động (sửa đổi), tôi xin phân tích “Lạm phát kỳ vọng và lạm phát thực tế” để thấy rõ độ trễ của chính sách lương so với sự biến động của chỉ số giá cả sinh hoạt. Tôi cũng dẫn chứng số liệu và phân tích “Lương thực tế và lương danh nghĩa” nhằm so sánh việc tăng lương so với mức độ lạm phát để thấy rõ lương thực tế bị giảm đi so với lương danh nghĩa do yếu tố lạm phát tác động. Từ những phân tích, so sánh đó, tôi đề xuất việc đưa nội dung “Bù lạm phát” vào nội dung Thương lượng tập thể thuộc khoản 1 Điều 72, Mục 1, Chương V của Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi).
1. Lạm phát kỳ vọng và lạm phát thực tế
Theo Điều 56 Bộ luật Lao động: “Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác. Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi lấy ý kiến Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động. Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị giảm sút, thì Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để bảo đảm tiền lương thực tế”.
Như vậy, mức lương tối thiểu được quy định tại Điều 56 Bộ luật Lao động đã tính đến sự biến động của chỉ số giá cả sinh hoạt. Tuy nhiên, do việc điều chỉnh mức lương tối thiểu “khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên” chỉ có thể dựa trên chỉ số giá sinh hoạt của năm trước và chỉ số giá sinh hoạt dự báo cho năm sau của Chính phủ và được Quốc hội phê duyệt nên nó không phản ánh hết được thực tiễn biến đổi của chỉ số giá cả sinh hoạt. Theo thống kê trong 5 năm trở lại đây, có đến 4 năm lạm phát thực tế luôn cao hơn nhiều so với lạm phát mà Quốc hội phê duyệt, cụ thể:
- Năm 2011: Quốc hội phê duyệt lạm phát là 7%, trên thực tế năm 2011 lạm phát tăng 18,58%.
- Năm 2010, Quốc hội phê duyệt lạm phát không quá 7%, thực tế lạm phát năm 2010 là 11,75%.
- Năm 2009, Quốc hội phê duyệt lạm phát dưới 7%, thực tế lạm phát là 6,52%.
- Năm 2008, Quốc hội phê duyệt lạm phát dưới 8,5 - 9% (gắn với chỉ tiêu tăng trưởng 8,5-9%), thực tế lạm phát của năm này là 19,89%.
- Năm 2007, Quốc hội phê duyệt lạm phát là dưới 8,5% thực tế lạm phát năm 2007 là 12,6%.
Rõ ràng, việc điều chỉnh lương tối thiểu của Chính phủ mặc dù đã tính đến yếu tố lạm phát của năm trước và dự báo cho năm sau, nhưng vẫn chưa phản ánh hết được lạm phát thực tế của nền kinh tế ở các thời điểm khác nhau. Và như vậy, khi lạm phát tăng cao hơn so với Chính phủ dự báo và Quốc hội phê duyệt thì cũng đồng nghĩa với việc mức lương tối thiểu thực tế đã bị thấp hơn mức lương tối thiểu trên danh nghĩa.
2. Thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa
Theo thống kê 3 năm gần đây thu nhập bình quân của người lao động mặc dù có tăng lên, nhưng vẫn không theo kịp sự tăng lên của lạm phát, cụ thể:
- Năm 2011: Thu nhập bình quân của người lao động là 4,17 triệu đồng/người/tháng (tăng 14,64% so với năm 2010), trong khi đó lạm phát năm 2011 là 18,58% .
- Năm 2010, Thu nhập bình quân của người lao động năm 2010 là 3,51 triệu đồng/người/tháng; tăng 12,36% so với năm 2009, lạm phát là 11,75%.:
- Năm 2008: Thu nhập bình quân của người lao động là 2,541 triệu đồng/người/tháng, tăng 16% so với năm 2007, lạm phát là 19,89%.
Từ số liệu thống kê trên đây cho thấy, thu nhập thực tế của người lao động giảm đi so với thu nhập danh nghĩa của họ. Hay nói khác đi, việc thu nhập bình quân của người lao động mặc dù tăng lên, nhưng trên thực tế không đủ bù lạm phát như số liệu thống kê của năm 2008, 2010, 2011.
3. “Bù lạm phát” - một nội dung nên đưa vào Bộ luật Lao động (sửa đổi)
Như dẫn chứng ở điểm (1), (2) nêu trên thì lương tối thiểu mặc dù đã được tính đến yếu tố giá cả sinh hoạt nhưng vẫn chưa phản ánh được thực tiễn giá cả sinh hoạt thực tế. Điều này cũng dẫn đến thu nhập thực tế không gắn liền với thu nhập danh nghĩa, thậm chí bị giảm so với thu nhập danh nghĩa của người lao động.
Hiện nay, để chia sẻ với người lao động trong thời kỳ lạm phát, một số doanh nghiệp đã tiến hành điều chỉnh lương không định kỳ và nhiều hơn một lần trong một năm. Tuy nhiên, tăng lương để ứng phó với lạm phát không phải là giải pháp tốt nhất, mà để ứng phó với lạm phát thì phải có phụ cấp bù lạm phát để làm cơ sở điều chỉnh. Phụ cấp bù lạm phát có thể tính bằng một tỷ lệ % của tổng tiền lương thực nhận của người lao động trong năm liền trước. Như vậy, không những đảm bảo được quyền lợi cho người lao động mà bản thân doanh nghiệp cũng không phải lo điều chỉnh tiền lương bất thường nữa.
Thực tế việc bù lạm phát đã được nhiều doanh nghiệp triển khai nhằm hỗ trợ cho cán bộ, nhân viên trong điều kiện lạm phát gia tăng. Trên báo Doanh nhân Sài gòn phát hành ngày 5/1/2012 cho biết khảo sát của Tập đoàn Tư vấn quản lý Hay Group thực hiện vào tháng 10 năm 2011 tại 46 công ty nội địa và nước ngoài tại Việt Nam cho thấy ¾ các tổ chức tham gia khảo sát (chiếm tỷ lệ 82,2%) đã phối hợp nhiều biện pháp để giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của lạm phát lên mức sống của nhân viên. Các biện pháp đã thực hiện bao gồm tăng thêm phụ cấp lương dưới hình thức thanh toán một lần, thay đổi cơ cấu tiền lương, trợ cấp cho nhân viên có lương thấp và thực hiện việc xem xét đánh giá tiền lương hai lần trong một năm. Một vài hình thức hỗ trợ người lao động khác được nêu bao gồm các phiếu ăn trưa và giảm giá nhiên liệu. Tại Công ty CP Tập đoàn Thái Bình Dương, từ năm 2011, Tập đoàn đã bù lạm phát bằng 10% thu nhập từ lương cho người lao động. Việc bù lạm phát này đã giúp lao động yên tâm công tác, đóng góp công sức và trí tuệ cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Từ thực tiễn trên, cần thiết đưa nội dung “Bù lạm phát” vào nội dung Thương lượng tập thể thuộc khoản 1 Điều 72, Mục 1, Chương V của Dự thảo Bộ luật lao động (sửa đổi). Đây sẽ là nội dung quan trọng góp phần tạo ra chính sách về lương bám sát với thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội; tạo hành lang pháp lý quan trọng để đơn vị sử dụng lao động và người lao động thoả ước các điều kiện về thu nhập khi ký hợp đồng lao động; góp phần đảm bảo an sinh xã hội…
ĐBQH.Phan Văn Quý