Công văn gửi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình
Kính gửi: Ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời vào năm 1999 theo Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 về Bảo hiểm tiền gửi. Vốn của BHTGVN được dựa trên nguồn vốn do nhà nước cấp và nguồn phí bảo hiểm tiền gửi hàng năm của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Do vậy, phí BHTG có ý nghĩa quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của tổ chức BHTG. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động bảo hiểm tiền gửi, cách tính phí bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên thế giới và Việt Nam tôi nhận thấy, việc áp dụng phí BHTG đồng hạng cho tất cả các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam hiện nay mặc dù đã đem lại những kết quả nhất định, nhưng việc áp dụng phí BHTG đồng hạng về lâu dài sẽ như một sự bao cấp cho những ngân hàng yếu kém, không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hệ thống, làm giảm uy tín của cả hệ thống ngân hàng khi hội nhập.
Để góp ý vào Dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi, tôi xin phân tích về phí bảo hiểm tiền gửi hiện nay và đề xuất việc thay đổi cách tính phí bảo hiểm tiền gửi để phù hợp với thực tiễn hội nhập của nền kinh tế Việt Nam.
1 - Cách tính phí BHTG trên thế giới và tại Việt Nam
Năm 1993, Mỹ là nước đầu tiên triển khai cách tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi sau một thời gian dài áp dụng phí bảo hiểm đồng hạng. Mức phí bảo hiểm tiền gửi cho từng ngân hàng được tính toán căn cứ vào những tiêu chí của hệ thống CAMEL (Hệ thống này đánh giá ngân hàng theo thứ tự từ 1 đến 5 (1 là tốt nhất, 5 là kém nhất) theo các chỉ tiêu: vốn, chất lượng/giá trị tài sản có, khả năng quản trị, lợi nhuận, khả năng thanh toán bằng tiền mặt, sự nhạy cảm của ngân hàng trước rủi ro của thị trường). Tại Pháp, từ năm 1999 phí bảo hiểm tiền gửi được tính dựa vào sự kết hợp các tỉ lệ an toàn và phân tích rủi ro tài chính đối với số lượng tiền gửi của từng ngân hàng hội viên.
Theo Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP và Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 thì phí BHTG được tính bằng 0,15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và được áp dụng đối với tất cả các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Việc áp dụng thu phí đồng hạng, BHTGVN chỉ cần quan tâm đến số dư tiền gửi bình quân của tổ chức tham gia bảo hiểm mà không cần phải đánh giá tiềm lực tài chính cũng như những nguy cơ có thể xảy ra rủi ro trong quá trình hoạt động của từng tổ chức, cho dù thực tế thì mức độ rủi ro đối với từng chủ thể khác nhau là không giống nhau.
Như vậy, việc áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng được nhiều nước thực hiện trong thời kỳ đầu phát triển của lĩnh vực tín dụng, ngân hàng và được thay đổi cùng với quá trình phát triển của lĩnh vực này. Đây là bài học thực tiễn sâu sắc để Việt Nam có thể lựa chọn mô hình phù hợp cho việc áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.
2 - Phí BHTG, cần tính đến rủi ro của tổ chức tham gia BHTG
Thực trạng phí BHTG thu đồng hạng trong thời gian vừa qua đã dẫn đến một nghịch lý: Các ngân hàng thanh khoản kém luôn tạo ra các cuộc chạy đua về lãi suất, đặt người gửi tiền vào rủi ro rất lớn khi có ngân hàng nợ xấu ở mức độ báo động. Bên cạnh đó, các ngân hàng không đáp ứng tốt các yêu cầu về thanh khoản vẫn luôn được tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng Nhà nước với cùng chế độ như các ngân hàng khác.
Những tồn tại trên đã không tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng, tạo ra rủi ro cho người gửi tiền nói riêng và nền kinh tế nói chung. Hiện nay, để tính phí BHTG nhiều nước trên thế giới dựa vào những tiêu chí của hệ thống CAMEL. Tại Việt Nam, để tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro cần phải xây dựng bộ tiêu chí đánh giá sát với thực tiễn hoạt động tín dụng, ngân hàng tại Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Mới đây, ngày 13/2/2012, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN, về Tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2012. Trong đó Chỉ thị xác định rõ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 cho 4 nhóm tổ chức tín dụng. Việc phân nhóm các tổ chức tín dụng dựa vào nhiều tiêu chí như chất lượng tài sản Nợ - Có; năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro; năng lực của người đứng đầu tổ chức tín dụng; những sai phạm trong tuân thủ chính sách. Việc xếp hạng và áp dụng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng là một bước tiến quan trọng nhằm đánh giá đúng “sức khỏe” của các tổ chức này, tạo ra sân chơi bình đẳng trong hệ thống ngân hàng, hạn chế rủi ro và đổ vỡ. Đây cũng là bước tiến quan trọng để có thể đi đến xây dựng một hệ thống tiêu chí xếp hạng ngân hàng, làm cơ sở để xây dựng phí bảo hiểm tiền gửi dựa trên thứ tự xếp hạng của mỗi ngân hàng.
Đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, việc tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro sẽ tạo ra một sân chơi cạnh tranh lành mạnh cho các ngân hàng, tạo động lực cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng trong quá trình hoạt động. Tránh sự chi phối của lợi ích nhóm; tạo ra sự đấu tranh ngay trong hội đồng quản trị, ban điều hành, giữa cổ đông với hội đồng quản trị, ban điều hành trong các vấn đề quản lý thanh khoản, quản trị rủi ro, kiểm soát tăng trưởng tín dụng, kiềm chế nợ xấu…để tổ chức tín dụng, ngân hàng mình có được chỉ tiêu tăng trưởng cao nhất, hệ số rủi ro thấp nhất, được hưởng mức phí BHTG thấp nhất…
Đối với người gửi tiền, mức phí BHTG sẽ phản ánh thực trạng của tổ chức tín dụng, ngân hàng và là tham số quan trọng để họ so sánh, lựa chọn hay không lựa chọn các tổ chức tín dụng, ngân hàng mà họ tham gia. Và như vậy, mục đích tối thượng của BHTG là bảo vệ người gửi tiền mới thực sự có ý nghĩa.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời muộn nhưng đã tạo nền tảng quan trọng để hoạt động bảo hiểm tiền gửi hội nhập quốc tế. Ở giai đoạn đầu BHTG mới thành lập, việc duy trì phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng đã có tác dụng kích thích sự tham gia của các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Song, về lâu dài việc xây dựng và áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro là vấn đề tất yếu, phản ánh đúng quy luật thị trường và nhằm đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng.
ĐBQH.Phan Văn Quý